BS. Nguyễn Khắc Viện (1913 - 1997) viết cho nhiều tờ báo ở trong và ngoài nước, tiếng Việt và tiếng Pháp. Để hiểu rõ và đánh giá hoạt động báo chí cũng như các hoạt động khác của ông như chính trị, khoa học tầng lớp, tâm lý học, tâm lý trị liệu, văn học, giáo dục, thể thao….. Cần biết tư cách, tư duy và lý tưởng của ông. Như ông nhận định mình: "Đạo lý là Nho, học thức là khoa học thực nhiệm, kết tinh vào học thuyết Mác…. Đóng góp phần mình cho cuộc đấu tranh tổ quốc, xây dựng dân chủ, khoa học, nhân văn là ba bước đường tôi đã chọn". Báo chí cũng là phương tiện để Nguyễn Khắc Viện thực hiện những nguyên tắc trên. Từ cách mệnh tháng Tám năm 1945 đến nay, ta có hàng nghìn nhà báo đối nội. Khó mà khẳng định ai là nhà báo xuất sắc nhất. Nhưng chắc nhiều người đồng tình là về báo chí đối ngoại, phải xếp Nguyễn Khắc Viện vào hàng đầu - báo ngoại ngữ ta không nhiều, nhà báo viết ngoại ngữ càng ít. Đây cũng là quan điểm các tác giả nước ngoài, đặc biệt ở phương Tây như giáo sư sử học David Marr, hiện đang dạy tại Trường Đại học nhà nước Australia (ANU), tác giả cuốn sử học thông thái Vietnam 1945: The Quest for Power, nhận xét: "có nhẽ BS. Nguyễn Khắc Viện là người duy nhất có thể giải thích về Việt Nam cho các độc giả phương Tây". Tiến sĩ mỹ học người Đức Guenter Giesenfeld, người đã từng dịch cuốn "Vietnam, a long history" của BS Nguyễn Khắc Viện sang tiếng Đức cho biết: "Khi chúng tôi ở châu Âu và châu Mỹ phản đối chiến tranh Mỹ ở Việt Nam, thì sách và bài báo của ông Viện là nguồn tư liệu khôn xiết quan yếu". Nhà sử học Pháp Charles Fourniau khi còn sống, coi ông Viện là "bậc thầy" dẫn dắt và giảng giải các vấn đề Việt Nam rất sáng tỏ cho công chúng Pháp. Theo ý kiến anh Viện, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, việc tranh thủ dư luận phương Tây phải là ưu tiên số một. Nước ta qua 9 năm kháng chiến chống Pháp, rất nghèo. Nên ra báo tiếng Trung, tiếng Hoa ít thôi vì Xô - Trung là bạn. Cái chính là phải ra báo tiếng Pháp, tiếng Anh để đánh vào hậu phương của Mỹ, tranh thủ sự ủng hộ của quần chúng. # Phương Tây. Về mặt chiến lược, báo chí ta không nhằm đối tượng công-nông vì xuất một tờ báo sang phương Tây lúc đó vừa khó khăn, vừa tốn kém. Vậy chỉ nên in số lượng vừa phải, các sứ quán ta phát hành đối tượng hẹp - là những chính khách, nhà hoạt động tầng lớp, nhà báo, nhà nghiên cứu để thuyết phục họ. Họ sẽ phát triển lập trường của ta trong sách báo nước họ, như vậy là tiện tái xuất mở mang, hiệu quả nhiều và ít tốn tiền. Năm 1963, Nguyễn Khắc Viện bị trục xuất vì lãnh đạo phong trào đấu tranh của Việt kiều yêu nước tại Pháp. Trước năm đó, báo chí đối ngoại Việt Nam mờ nhạt và quan niệm sách báo đối ngoại của ta còn ấu trĩ, tỉ dụ, một cán bộ Ban Tuyên huấn xuống chỉ thị cho biên tập viên tòa soạn tùng san Anh - Pháp - Quốc tế ngữ Le Vietnam en marche (VNEM): không cần biên soạn nhiều làm gì, chỉ cần dịch báo dân chúng, các bài phát biểu của các vị lãnh đạo. Quan niệm làm báo thời đó qua loa, chính trị hóa một cách thơ ngây, không phân biệt đối tượng trong và ngoài nước. Các biên tập viên VNEM kể cả Việt kiều, là trí thức được đào tạo thời Pháp đã tránh được những quan niệm ấy, nhưng ông Nguyễn Khắc Viện có kinh nhiệm làm báo ở Pháp là người đề ra một cách hợp lý một số nguyên tắc viết sách báo đối ngoại. Ở Pháp về, ông được giao nhiệm vụ gánh vác sách báo đối ngoại, ngoài khối của Thông tấn xã Việt Nam. Việc trước hết, ông phải tổ chức bộ máy. Ông sáng lập tùng san Pháp - Anh Etudes Vietnamiennes - Vietnam Studies (EV-SV - Nghiên cứu VN), gắn với báo hàng ngày Pháp - Anh Le Courrier du Vietnam (CV) và Nhà xuất bản Ngoại văn (NXBNV) thành một đơn vị tác chiến tổng hợp: CV có nhiệm vụ thông báo kịp thời (bộ binh), NXBNV đi sâu vào từng vấn đề (pháo binh), EV-SV nghiên cứu và bình luận khá sâu những vấn đề cơ bản và thời cuộc (vừa là pháo binh và bộ binh). Về vấn đề cán bộ, cần "tinh" hơn "đa": trong số hơn trăm cán bộ ba cơ quan, ông chỉ giữ hai phần ba, những người viết được hay ít nhất, đọc thông ngoại ngữ. Số còn lại chuyển sang công tác khác. Một việc làm gan dạ vào lúc đó. Có bộ máy, cần hợp nhất phương pháp viết sách báo đối ngoại. Chúng tôi cũng có ít nhiều kinh nhiệm, nhưng kinh nhiệm của một nhà báo ở Paris như ông Viện thật thiết thực và hiệu quả. Viết cho đối tượng nước ngoài khác trong nước; đặc biệt cần hiểu đối tượng bên Tây vì vào thời toàn cầu hóa, ảnh hưởng phương Tây (nhất là qua tiếng Anh bá chủ) rất lớn. Do hiểu tâm lý và văn hóa phương Tây, nên những bài báo của ông Viện "đánh rất trúng". Ông Viện đã khéo phối hợp các nhận xét tinh tế, các suy nghĩ của bản thân với cách phân tích sâu sắc. Vì trước nhất, ông đã hiểu rõ về phương Tây như chính nước mình nên đã có cả một kho vô tận những dẫn chứng đối chiếu để bạn đọc nước ngoài dễ hiểu hơn các sự kiện Việt Nam. TS. Đức Giesenfeld cho là Nguyễn Khắc Viện đưa ra "những tài liệu hết sức quan trọng để biết người Việt Nam nghĩ suy thế nào…. Ông là cây cầu nối hai thế giới Đông - Tây". Ông Hoàng Tùng, khi làm Ban Tuyên huấn, cũng thường đọc bài tiếng Pháp của Nguyễn Khắc Viện, nhận xét: "Phương pháp của BS. Viện là phê duyệt các nhà kiến thức ở các nước tác động đến hai loại người: giới cầm quyền và quần chúng. Ông rất sở trường về phong cách văn chương do biết linh hoạt với từng loại thể: chính trị, văn hóa, y học,… và không bao giờ theo kiểu văn thơ tuyên truyền, ông nói và viết theo từng đối tượng". Nội dung phong phú, hợp đối tượng chưa đủ tạo ra một bài báo đối ngoại, còn cần một ngoại ngữ tinh túy như người nước ngoài. GS và nhà văn Pháp Gillon bảo tôi là BS. Viện biết những ngõ ngách của tiếng Pháp hơn người Pháp. Không lạ gì khi Viện Hàn lâm Pháp đã tặng ông Giải thưởng Lớn Pháp ngữ. Trong suốt tuổi chống Mỹ, tùng san EV-SV góp phần cùng các dụng cụ tuyên truyền đối ngoại của ta tranh thủ sự ủng hộ tích cực của dân chúng phương Tây, khiến cho sau Tết Mậu thân, Mỹ phải ký Hiệp định Paris 1973, một phần do sức ép của dư luận Mỹ. Sau khi hòa bình lập lại, BS. Viện tháo lui khỏi tuyên truyền đối ngoại, chuyên viết tiếng Việt về mấy trọng điểm khác mà ông cho là có thể giúp ích nhiều hơn: tâm lý con trẻ, dinh dưỡng, đá cầu truyền thống. Ông trao lại cho chúng tôi nhiệm vụ đấu EV-SV. Năm 2013, EV đã được 50 tuổi, ra được hơn 180 số. Mặc dù do kinh tế thị trường, EV-SV không có đủ điều kiện phát triển, nhưng các độc giả nước ngoài tìm hiểu Việt Nam vẫn trân trọng EV-SV. Hữu Ngọc (*)
|
Thứ Tư, 31 tháng 7, 2013
Thầy đồ Nghệ viết báo tiếng bổ xung Tây
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét