Tuy nhiên sự để ý dành cho chuỗi giá trị toàn cầu đã chuyển việc phân tách thương nghiệp ra khỏi thị trường và hướng tới các tổ chức – bao gồm cả các tập đoàn và chính phủ – có chức năng giám sát hoặc không đủ khả năng giám sát các hoạt động của mình
Nói cách khác, iPhone thực ra không được sản xuất tại Trung Quốc, dù rằng công đoạn lắp ráp rút cuộc diễn ra tại đó. Sự kết hợp lỏng lẻo giữa quản lý, sản xuất và chính sách đã làm yếu đi sức mạnh mặc cả của công nhân.
Họ ước lượng rằng giá trị của những hàng hóa đầu vào du nhập so với tổng đầu vào trong quá trình sinh sản tại Mỹ là 16,4% vào năm 2010, tăng từ 6,2% của năm 1984. "Made in USA" vẫn là một cái mác lôi cuốn rất nhiều khách hàng, tuy nhiên nếu hiểu rõ công việc kinh dinh, chúng ta có thể thấy rằng lời khẳng định này bản tính rất mơ hồ. Điều này lý giải tại sao các tập đoàn trong nhóm độc quyền của thị trường thường chọn địa điểm sinh sản tối ưu cho từng công đoạn cụ thể.
Hồ hết iPhone đều được lắp ráp tại Trung Quốc và tạo ra cho Mỹ một lượng thặng dư thương nghiệp khổng lồ. Trong thế giới thực, các công ty lớn thường dựa vào lợi thế quy mô để tăng tính kinh tế và thực hiện các thủ thuật mang tính chiến lược để kiếm thêm lời trong khi phải cạnh tranh về giá.
Milberg và Winkler định nghĩa offshoring là "hết thảy các hàng hóa trung gian mua tại nước ngoài, duyệt y các hoạt động gia công từ xa (offshore outsourcing) hoặc trong nội bộ một tập đoàn đa quốc gia".
Nếu nhìn theo cách này thay vì doanh số, thặng dư thuơng mại của Trung Quốc khi sản xuất iPhone thực ra lại là thâm hụt. Tuy nhiên một cuộc nghiên cứu cụ thể và chi tiết gần đây cho thấy trong năm 2009, giá trị gia tăng tại Trung Quốc chỉ đóng góp khoảng 4% vào tổng tổn phí sản xuất.
Apple là của ai? Ví dụ tiêu biểu nhất của hiện tượng này là Apple. Nguồn lực của họ giúp họ thuê được nhân công giá rẻ nhất.
Hệ số biên lợi nhuận gộp Apple có được từ iPhone tăng 49% từ 2010 tới 2012. Làm sao để biết được đâu là hàng nhập khẩu, đâu là hàng xuất khẩu khi mà hàng nhập khẩu lại là những linh kiện rất quan trọng để sản xuất hàng xuất khẩu, và ngược lại? Trong cuốn sách mới của mình có tên "Outsourcing Economics" (tạm dịch: kinh tế thuê ngoài), Wiliam Milberg và Deborah Winkler tranh cãi rằng ngay cả những người làm trong ngành kinh tế hay các con số cụ thể về thương nghiệp quốc gia cũng khó có thể đáp câu hỏi trên.
Giá các linh kiện du nhập từ Đức, Nhật, Hàn Quốc, Mỹ và các quốc gia khác vượt xa rất nhiều giá trị gia tăng tại Trung Quốc. Hồ hết các tập đoàn đa nhà nước đều mong muốn nắm trong tay sức mạnh đáng kể trên thị trường, tăng áp lực mặc cả đối với các công ty cung cấp linh kiện nhỏ.
Lý thuyết truyền thống về ngoại thương được xây dựng dựa trên quan niệm rằng mỗi nước đều có lợi thế cạnh tranh đối với một loại sản phẩm, dịch vụ một mực so với các nước khác trong thị trường cạnh tranh toàn cầu.
Tuy nhiên với offshoring, mất mát về việc làm ảnh hưởng không chỉ tới ngành công nghiệp cụ thể, mà tới tất khu vực sinh sản.
Thay vì xuất khẩu iPhone, Trung Quốc chỉ là một bước hiện hữu rõ nhất trong dây chuyền chế tác toàn cầu của Apple.
Lý thuyết ngoại thương khẳng định ích lợi của khách hàng sẽ ảnh hưởng tới công nhân trong ngành công nghiệp. Sau đó số tiền hà tiện sẽ được dùng để tăng lợi nhuận thay vì giảm giá cho người tiêu dùng. Trong một thế giới lý tưởng với các thị trường hoàn hảo, lợi nhuận cao mau chóng biến mất khi có thêm người tham dự vào thị trường.
Kết quả là họ giành được một lượng lớn lợi nhuận mà đáng nhẽ người tiêu dùng đã được hưởng trong giá. Việt Dũng Theo New York Times. Sức mạnh Vậy nếu ngoại thương tiếp kiến với hình thức offshoring thì sao? Có ý kiến cho rằng nó vẫn đem lại những ích lợi to lớn cho người tiêu dùng, kể cả khi đã tính đến những mất mát gây cho thị trường việc làm nội địa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét